Cơ Ho

Khái quát chung về dân tộc

Dân số: Dân tộc Cơ Ho có 166.112 người (năm 2009)
Địa bàn cư trú: Đồng bào cư trú tập trung ở các tỉnh: Lâm Ðồng, Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận.
Tên gọi theo nhóm địa phương và vùng cư trú: Xrê, Nộp, Cờ Dòn, Chil, Lát, Tring, Lạch.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer (ngữ hệ Nam Á)

Sản xuất nông nghiệp

Người Cơ Ho chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Mỗi nhóm địa phương cư trú ở những điều kiện khác nhau, có cách thức trồng trọt khác nhau: Nhóm Xrê chủ yếu làm ruộng nước, biết sử dụng cày, bừa bằng gỗ làm đất, cấy lúa. Các nhóm Nộp, Cơ Dòn, Chil, Lát, Tring, Lạch cư trú ở vùng núi cao, chủ yếu làm rẫy, theo lối phát, đốt, chọc, trỉa. Công cụ sản xuất có: xà gạc, gậy chọc lỗ tra hạt, cào cỏ.  Cây trồng trên rẫy gồm có: lúa, ngô, khoai, sắn, các loại rau: bầu, bí, mướp, đậu… Ngoài ra đòng bào còn làm vườn trồng cây ăn quả và cây công nghiệp như: cà phê, mít, bơ, chuối, đu đủ…

Người Cơ Ho chú trọng phát triển chăn nuôi: trâu, lợn, dê, gà, chó. Phương pháp chăn nuôi chủ yếu là nửa chăn thả, nửa chăm sóc. Sản phẩm chăn nuôi để phục vụ nhu cầu tâm linh như cúng lễ, ma chay, cưới xin và cải thiện bữa ăn hàng ngày. Ngày nay, một số hộ gia đình chăn nuôi theo đàn để bán cho thương lái, tăng thu nhập gia đình

Kinh tế tự nhiên

Ngoài trồng trọt, chăn nuôi, người Cơ Ho vẫn duy trì các hoạt động săn bắt, hái lượm, đánh bắt cá. Trước đây, hàng ngày, mỗi người ra khỏi nhà, nữ mang gùi hái rau, nam mang dao rựa, nỏ đi săn bắt thú. Đây là nguồn thực phẩm chủ yếu hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp và cải thiện bữa ăn hàng ngày của đồng bào. Ngày nay, nguồn lợi từ thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, đồng bào phát triển chăn nuôi để cải thiện cuộc sống, các hoạt động hái lượm chiếm đoạt tự nhiên đã giảm đáng kể.

Nghề thủ công

Trước đây, các nhóm Cơ Ho đều có các nghề thủ công: gốm, rèn, dệt, đan lát, đáp ứng nhu cầu cuộc sống tự túc, tự cấp. Trong đó, nghề dệt vải thổ cẩm khá  phát triển, nhưng phổ biến nhất ở nhóm Chil. Truyền thống, phụ nữ phải lo cái mặc cho cả gia đình, bởi vậy các bé gái Cơ Ho từ nhỏ đã được các bà, các mẹ dạy dệt vải, may trang phục. Cách đây 20 năm về trước đa số phụ nữ Cơ Ho đều biết dệt vải, thành thạo với việc dệt thổ cẩm, thậm chí biết dệt vải giỏi là một trong những tiêu chí không thể thiếu để những người con trai Cơ Ho chọn vợ. Họ còn ra 1 quy định trong hôn nhân để thử tài năng của cô gái người Cơ Ho: Trước khi đi lấy chồng, cô gái Cơ Ho phải tự tay dệt những tấm vải thổ cẩm, may áo váy đẹp cho gia đình và dệt tấm chăn (tấm Ui) làm đồ sính lễ mang đến nhà trai trong ngày cưới. Khung cửi dệt vải của người Cờ Ho đơn giản, là khung dệt khổ rộng, được làm bằng những thanh gỗ, tre, hay những ống lô ô, khi dệt khung mới được căng ra. Hiện nay, nghề dệt của người Cơ Ho đã mai một, việc dệt vải chỉ còn là việc của một số người lớn tuổi, hoặc tồn tại ở nhóm Chil. Tuy nhiên, việc dệt cũng không thường xuyên mà chỉ túc tắc dệt lúc nông nhàn.

Nghề rèn nông cụ và đan lát phổ biến ở các gia đình, chủ yếu do người đàn ông đảm nhiệm, tuy nhiên không mang tính chuyên nghiệp. Sản phẩm rèn gồm: xà gạc, dao nhỏ, rìu…. Dụng cụ đan lát gồm: có dao nhỏ, xà gạc dùi. Sản phẩm đan lát, lớn là vách nhà, kho  lúa, kho ngô, bé là đồ sản xuất, săn bắt, đánh cá và vận chuyển (gùi, giỏ…) và đồ gia dụng(mâm, rá, túi đựng cơm…). Riêng nhóm Cơ Ho Lạch, công việc đan lát có sự phân công khá rõ ràng: đàn ông đan gùi, nong, nia, đồ đựng thóc gạo, phụ nữ đan cói. Các sản phẩm làm ra từ cói có chiếu (bêl), mũ (đ­uôn), túi đựng thức ăn (plơ) khá tinh xảo, được đem trao đổi với các dân tộc trong vùng. Một số nơi còn có nghề gốm, làm đồ gia dụng và trao đổi. Ngày nay, hầu hết các nghề thủ công của đồng bào đã mai một.

Phương thức vận chuyển

Gùi là phương tiện vận chuyển chủ yếu của đồng bào Cơ Ho. Gùi có nhiều loại với công năng sử dụng khác nhau như: gùi lúa, gùi củi, gùi đựng nông sản, gùi đi săn….

Trao đổi hàng hóa

Trong xã hội truyền thống, đồng bào Cơ Ho dùng vật đổi vật, không qua trao đổi tiền tệ. Đồng bào thường dùng các sản phẩm đan lát (Gùi, mâm đan, rá đựng cơm…), nông sản (Lúa, ngô…) hoặc vật nuôi (Trâu, bò, lợn, gà…) để đổi lấy hàng theo giá trị vật ngang giá như: Các công cụ lao động sản xuất (cuốc, dao, rìu… ) cồng, chiêng… Sản phẩm dư thừa đem trao đổi với các dân tộc khác, gần đây đem bán ở các chợ, thị trấn trong vùng. Ngày nay, việc trao đổi hàng hóa chủ yếu bằng tiền mặt diễn ra ở các chợ huyện, xã…

Văn hóa mặc

Trang phục người Cơ Ho có nét tương đồng với người Mạ. Nam giới đóng khố, ở trần, phụ nữ mặc áo không tay, váy là tấm vải khổ 70cm – 90cm. Khố của nam giới Cơ Ho có kích thước dài ngắn khác nhau, đóng theo hình chữ T, màu xanh đen, trang trí hoa văn đơn giản dọc theo rìa mép, đôi khi còn đính thêm những chuỗi hạt cườm và những dải tua. Nam và nữ Cơ Ho thường mặc áo chui đầu. Áo nữ mặc sát thân, dài tới thắt lưng, áo nam rộng hơn một chút, hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước. Mùa lạnh, đồng bào khoác thêm một tấm mền cho ấm.Váy của phụ nữ Cơ Ho là dạng váy tấm, quấn quanh người một vòng và giắt ở cạp. Nền váy màu đen trên đó dệt trang trí những dải hoa văn theo băng ngang màu trắng viền ngang khổ vải. Hoa văn trang trí trên trang phục nam nữ Cơ Ho chủ yếu là mô típ hình học, động vật. Trang sức là những vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai. Ngày nay, đồng bào dần chuyển sang mặc trang phục hiện đại.

Trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc tỉnh Bình Thuận: Trang phục nam giới Cơ Ho gồm áo chui đầu, cổ tròn, không có tay, nền đen, trang trí các đường viền thổ cẩm, màu xanh, sáng, đỏ bên sườn áo; khố chàm đen, trang trí đơn giản bởi các sọc màu ở hai bên mép khố. Phụ nữ ưa chuộng các bộ váy, áo dệt thổ cẩm dệt tối màu, nhất là màu nâu và đen, nhiều mô típ khác nhau. Trang phục phụ nữ Raglai mặc váy khoang 2 màu đen trắng, váy chủ yếu màu đen. Đàn ông mặc khố và áo màu đen, viền mép màu đỏ. Trang phục lễ hội truyền thống của phụ nữ Chăm Bà La Môn là chiếc áo dài truyền thống, cổ lá trầu, đội hoặc quàng khăn. Lễ hội Ka Tê, nam giới mặc quần và áo rộng, áo có hoa, cổ đứng, nẹp vải thổ cẩm, đội khăn.

Văn hóa ẩm thực

Các thành viên gia đình Cơ Ho thường ăn 3 bữa chính trong ngày. Trước kia, cơm canh đều nấu trong ống tre tươi, sau này mới dùng nồi đất, nồi đồng và nồi gang để thay thế. Các món ăn được chế biến khô cho phù hợp với thói quen ăn bốc. Món canh phổ biến là măng tươi, cây chuối non, cho thêm ớt, muối. Nước uống được đựng trong các quả bầu khô, trong các ghè. Rượu cần rất được ưa chuộng trong các dịp lễ tết, hội hè, khi có khách ở xa tới thăm…Rượu được chế biến từ gạo, ngô, sắn… trộn với men được làm từ lá cây rừng. Từ xa xưa, người Cơ Ho đã biết cách ủ rượu cần bằng men được làm từ các loại lá rừng. Mỗi vùng, người ta dùng thứ lá khác nhau để làm men, cách dùng lá cây và quy trình chế biến men nấu rượu được coi là bí quyết, những lá cây không phổ biến rộng để giữ riêng, chỉ được phổ biến trong nội tộc. Thậm chí có những gia đình làm rượu ngon có tiếng trong vùng, song bí quyết đó chỉ được truyền cho con gái cả hoặc những người con gái nào được mẹ tin tưởng. Cả nam giới và phụ nữ Cơ Ho đều hút thuốc theo kiểu dùng lá thuốc phơi khô cuộn lại. Một số người khá gìa, dùng tẩu hút thuốc.

Văn hóa ở

Truyền thống người Cơ Ho ở nhà sàn dài bằng khung gỗ kết hợp với vì kèo, cột, xà ngang và xà dọc bằng mộng, ngoãm và dây rừng, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và thưng bằng cỏ tranh để chống lạnh.Trước cửa ra vào có một cầu thang lên xuống. Vách đối diện với cửa để đặt ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà. Những ngôi nhà sàn truyền thống hầu như không còn nữa. Hiện nay, người Cơ Ho phổ biến ở nhà đất.

Quan hệ xã hội, dòng họ

Làng (bon) của người Cờ Ho còn tồn tại những dấu vết của chế độ mẫu hệ. Ðứng đầu một làng là chủ làng (Kuang bon). Ở những nơi dân cư tập trung đông đúc, hình thành một tổ chức liên minh tự nguyện giữa các làng và đứng đầu liên minh (gọi là M’đrông) chuyên quản việc chung như cúng lễ, giải quyết xung đột, chanh chấp trong buôn. Người Cơ Ho vẫn tồn tại 2 hình thức gia đình: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Tuy nhiên, gia đình lớn hiện nay hầu như không còn nữa, chỉ còn hình thức gia đình nhỏ là phổ biến. Tổ chức gia đình truyền thống theo chế độ mẫu hệ. Người đàn bà đóng vai trò chủ động hôn nhân. Sau hôn lễ, người con trai về ở bên nhà vợ. Con cái tính theo dòng họ mẹ, con gái là người được thừa kế tài sản. Ngày nay, tập tục này vẫn tồn tại khá phổ biến trong gia đình Cơ Ho.

Tập tục hôn nhân, gia đình

Người con gái Cơ Ho đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Hôn nhân một vợ một chồng bền vững, đôi vợ chồng sống tại nhà vợ.

Tập tục cổ truyền của người Cơ Ho nghiêm cấm việc kết hôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ và ngược lại. Khi chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người Cơ Ho dựa trên cơ sở ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định thay con. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường từ 16 đến 17 tuổi đối với nữ, và từ 18 đến 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh từ 5 đến 6 con nên tỷ lệ sinh khá cao. Ngày nay, xu hướng lấy vợ, lấy chồng đã tuân thủ luật hôn nhân gia đình, đủ 18 tuổi mới kết hôn.

Tập tục tang ma

Người Cơ Ho quan niệm cái chết là tiếp nối của sự sống, bắt đầu cuộc sống mới ở một thế giới khác, tương tự như cõi trần. Do đó, phải chia của cải gồm chiêng, ché, gùi, chà gạc… để người chết mang theo sử dụng khi về cõi tổ tiên. Trong tang ma, người Cơ Ho có nhiều kiêng cữ: Chết do già, ốm đau bệnh tật là chết tốt. Chết do tai nạn, bất đắc kỳ tử gọi là chết xấu, nhẹ thì cấm toàn bộ người trong làng không đến nhà người đó trong vòng một tháng, nặng thì không cho mang quan tài, thi thể vào làng mà bắt để quan tài ở ngoài làng, cho tới lúc đi chôn.

Trước đây, nếu trong làng Người Cơ Ho có người chết, cả làng phải nghỉ phát rẫy trong vòng ba ngày. Nếu không may trong nhà có người chết vào đúng mùa thu hoạch, xác chết phải để trong nhà cho đến khi lúa trên rẫy của gia đình thu hoạch xong mới được chôn cất. Vì tập tục này, có những trường hợp thời gian để người chết trong nhà kéo dài hàng tuần. Ngày nay, tập tục này không còn nữa.

Sau khi người vợ chết, người đàn ông Cơ Ho thường trở về nhà cha mẹ mình, con cái vẫn tiếp tục ở bên nhà mẹ. Khi chồng hay vợ chết, người góa phải để tang một năm. Tuy nhiên, người chồng có thể tái hôn khi chưa mãn hạn tang, nếu anh ta được gia đình người vợ quá cố cho phép hoặc anh ta lấy chị em gái của người vợ quá cố. Ngày nay, tập tục trong ma chay ở người Cơ Ho đã có nhiều biến đổi. Do ảnh hưởng của đạo tin lành và đạo thiên chúa, nhiều vùng đã xây dựng mộ bằng gạch kiên cố, có bia mộ khắc tên thánh của người quá cố. Tục bỏ mả của người Cơ Ho chỉ tồn tại ở nhóm Xrê, với thủ tục và nghi thức có phần đơn giản hơn các dân tộc khác trong vùng. Ngày nay, tục đem cơm và thức ăn ra để ở mộ cho người chết trong những ngày đầu sau khi chôn cất không còn tồn tại, thay vào đó là việc tổ chức cúng giỗ người chết trong ngày giỗ như người Kinh.

Tôn giáo, tín ngưỡng

Người Cơ Ho quan niệm có nhiều vị thần. Trong đó, Nđu là vị thần tối cao, sau đến thần mặt trời, thần mặt trăng, thần núi, sông, thần đất, thần lúa… cùng với hệ thống thần linh là các nghi lễ cúng liên quan đến chu trình canh tác lúa, nghi lễ liên quan như: lễ đâm trâu, lễ rửa chân trâu, lễ gieo giống, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho …

Văn học, âm nhạc, nghệ thuật

Vốn văn học nghệ thuật dân gian của người Cơ Ho rất phong phú, gồm: Thơ ca, ca dao, huyền thoại, sự tích. Thơ ca giàu trữ tình và đầy nhạc tính với một số khúc ca cổ truyền được diễn trong các dịp lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu ( kơmbuat ), đan ống tre ( kơrla ), trống ( sơgơr ) vv… có khả năng hòa ca và độc tấu. … Vào dịp tết, bên bếp lửa và ché rượu cần, già làng kể cho con cháu nghe nhiều sự tích, truyền thuyết, huyền thoại, giảng giải thơ, ca dao về giống nòi và quê hương.

Tết, lễ hội cộng đồng

Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức nhiều lễ, tết và hội. Trong đó Mừng lúa mới là tết lớn nhất của đồng bào. Tế mừng lúa mới (cầu mùa) diễn ra  khi mùa màng thu hoạch xong (thường là tháng 12 dương lịch). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để làng tổ chức lễ đâm trâu trong dịp này. Lễ được tổ chức ở ngoài trời trước nhà chủ hiến tế, chủ làng hay ở mảnh đất rộng, bằng, cao ráo của làng, với cây nêu được trang trí sặc sỡ, mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu được bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 – 10 ngày. Trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc như: làm nhà, chuyển làng… Trong những ngày hội có các trò chơi dân gian: đi cà kheo, leo cột, kéo co…