Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo

Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo ở thôn Chúng Chải, xã Phố Là, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang thường được tổ chức vào ngày 06 tháng 6 Âm lịch, trừ trường hợp ngày đó trùng vào ngày Mùi hoặc ngày Dậu (ngày được coi có tượng là Dê và Gà – hai con vật được đem làm đồ tế lễ) thì có thể tổ chức sớm hoặc muộn hơn.

Trong đời sống tín ngưỡng của người Pu Péo, tục cúng thần rừng đã có từ lâu đời. Các khu vực người Pu Péo sinh sống đều có một khu rừng cấm riêng, nơi thần rừng cư ngụ, được người dân gìn giữ và bảo vệ bởi các luật tục và điều kiêng kỵ, không được xâm phạm nơi ở của thần, không được vào rừng chặt cây, lấy củi, săn bắn… Với người Pu Péo, thần rừng (Sau ngun hay Sau nguôn) có vị trí đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng nhất và được cầu khấn trong hầu hết các nghi lễ thờ cúng.

Người Pu Péo còn lưu giữ câu chuyện về nguồn gốc lễ cúng thần rừng như sau: ở vùng cao heo hút có ông thần lạ, ai muốn chặt cây, đốt nương phải xin phép thần ưng thuận thì mới được vác rìu, vác cuốc tới. Thần giao trách nhiệm cho ong và kiến coi giữ rừng, nếu ai xâm phạm là sà xuống đốt và xua đuổi. Từ đó, người không xâm phạm được tài sản của thần rừng. Không có đất làm nương, không có gỗ làm nhà, người kiện lên vua trời. Vua trời phán rằng: từ nay, thần rừng phải để người khai phá đất đai trồng trọt, làm kế sinh nhai. Người tự do chặt cây, làm muông thú hết nơi cư ngụ, kiếm ăn, chúng lại kéo lên vua trời kiện con người. Vua trời phán: rừng là của chung muôn loài. Con người được khai phá đất đai, lấy gỗ làm nhà, làm củi đốt. Tuy nhiên, rừng phải có người cai quản, muông thú phải có nơi cư ngụ, kiếm ăn. Người muốn chặt cây, đốt rẫy phải thông báo bằng lễ cúng thần rừng.

Người Pu Péo cho rằng thần rừng là chủ nhân của rừng cấm. Rừng cấm còn là nơi ở của nhiều vị thần khác, tổ tiên từ nhiều đời trước, không còn được thờ cúng trong gia đình, là nơi dừng chân, hội tụ của thế giới các vị thần mỗi khi qua lại và gặp nhau.

Lễ cúng thần rừng được tổ chức ở khu vực bìa rừng, phía sau làng. Đàn cúng được làm từ những cành cây nhỏ, để nguyên lá, cắm xuống đất, cành đan vào nhau, cao khoảng 1,0m, dựng quay về rừng cấm. Trước đó, người dân cùng họp phân công công việc và chuẩn bị lễ vật cho thần rừng. Người dân cùng đóng góp tiền mua lễ vật, mời thầy cúng. Sáng mùng 6 tháng 6, mỗi gia đình cử một đại diện, thường là chủ nhà, mang những lễ vật đã chuẩn bị trước đến một nhà gần rừng nhất, họ cắt cử người nấu cơm, luộc trứng (hoặc thịt), người ra địa điểm cúng dọn dẹp sạch sẽ, người đi chuẩn bị củi, chất đốt… Củi phải được mang từ nơi khác đến. Cơm chín được nắm lại và dùng sợi chỉ cắt cho vuông vắn. Trứng luộc chín được bóc vỏ, cắt đôi.

Lễ vật chuẩn bị xong, được mang ra để bắt đầu nghi lễ cúng thần rừng. Trước khi ra cúng rừng, người chủ của mỗi gia đình phải thắp hương cho tổ tiên trong nhà trước. Chủ trì lễ cúng là thầy cúng (Pế mổ) do người dân trong làng chọn lựa, là người có uy tín, được người dân nể trọng. Trong tháng diễn ra lễ cúng thần rừng, thầy cúng phải kiêng ăn thịt chó.

Trước kia, trong thời gian cúng và ba ngày sau đó, người Pu Péo cấm người ra vào bản, không được ra đồng, săn bắn, chặt cây cối, người ta dựng cột gỗ buộc túm lá xanh để làm ký hiệu treo ở đầu bản.

Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo được chia làm hai phần: cúng dâng lễ (cúng sống) và cúng chính (cúng chín).

Cúng dâng lễ: đầu tiên thầy cúng cho buộc hai con gà còn sống vào chân đàn cúng, con dê được buộc gần đó. Mười nắm cơm cắt sẵn, trên có miếng trứng (hoặc thịt luộc) được đặt lên ban thờ. Bên dưới là một nong cơm nắm được xếp thành năm hàng, không quy định số lượng, hàng trên cùng là một nắm cơm to, trên đặt một lòng đỏ trứng gà. Các hàng cơm nắm thể hiện quan niệm của người Pu Péo về thế giới thần linh, trên cùng là thần rừng, dưới là các thần linh được phân theo cấp bậc.

Thầy cúng thắp hương cắm ở hai bên và chính giữa đàn cúng, rót rượu vào 4 chiếc chén và đọc bài cúng để mời thần rừng, các vị thần và tổ tiên về dự, bày tỏ lòng thành kính với họ. Dân làng dâng lễ vật mời các vị thần về tham dự và chứng nhận cho lòng thành của họ. Kết thúc bài cúng, thầy cúng sai người mang gà đi cắt tiết.

Gà được cắt tiết, để nguyên con bày hai bên nong, đầu được đặt lên lá rong hoặc lá chuối. Bát tiết được đặt phía trên nong, hai bên là hai chai rượu, 4 chén rượu đặt ở bốn góc trên chiếc nong. Thầy cúng tay cầm cành tre nhỏ, vừa cúng, vừa vung cành tre. Sau chừng 15 phút, thầy cúng cho mang đôi gà đi và dắt con dê vào, đọc bài cúng khác để báo cáo với thần rừng đây là lễ vật thứ hai dâng lên, xin thần làm chứng cho. Sau đó, thầy cúng cử người mang dê đi cắt tiết rồi mang cả chậu tiết và con dê đưa lên đàn tiếp tục cúng. Ở phần này, thầy cúng phải đứng cúng, bên cạnh có một người đại diện cho dân làng đứng nghiêm, kính cẩn thể hiện lòng thành kính đối với thần rừng và các vị thần cư ngụ trong rừng. Thầy cúng mời thần rừng về và liệt kê những lễ vật mà dân làng dâng cúng, mong các vị nhận lấy. Kết thúc phần này, thầy cúng sai mọi người mang dê đi mổ để chuẩn bị cho phần cúng tiếp theo.

Cúng chính: Dê được thui, nội tạng để sống, đặt bên cạnh đàn cúng. Thầy cúng khấn báo cho các thần biết lễ vật mà dân làng dâng lên nguyên vẹn, đầy đủ. Sau đó, nội tạng dê được mang đi làm chín. Đối diện đàn cúng chính là một tấm phên nhỏ đặt trên một thanh tre cao khoảng 1,0m, cắm trên nền đất, phía trên đặt một tấm lá rong. Thầy cúng cử một người dùng một thanh tre, bê chậu tiết dê chấm lên lá rong đó các chấm nhỏ. Đây là đàn cúng tượng trưng, cúng những ma dữ hay hại con người và những hồn ma vô chủ, không có nơi cư ngụ. Trong lúc người dân chấm tiết dê, thầy cúng đứng cạnh khấn gọi hồn những ma đó về cùng tham dự lễ cúng.

Tiếp đó, thầy cúng quay lại ban cúng chính, đặt vào nong 5 chiếc bát có phần nội tạng của con dê đã luộc chín, thắp thêm hương, rót thêm rượu, bắt đầu cho bài cúng chính. Thầy cúng tay cầm một cành cây, mỗi điểm nhấn trong bài cúng, thầy lại vung cành cây lên phẩy qua, phẩy lại trước ban thờ. Bài cúng kể về công lao của thần rừng, sự tích của đất trời và các vị thần, với hàm ý dân làng không quên nguồn gốc, không quên công lao của thần rừng, tổ tiên người Pu Péo và các vị thần đã phù trợ cho dân làng, cầu mong một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, con người khỏe mạnh, no đủ… Kết thúc bài cúng, thầy cúng cầm theo một con dao nhỏ đến đàn cúng các vong hồn và ma quỷ, kể tội các vong hồn, ma quỷ đã quấy nhiễu, làm hại dân làng, rồi dùng con dao hất đổ đàn cúng với ý nghĩa xua đuổi những điều xấu và ma quỷ. Sau lễ cúng, mọi người cùng nấu nướng và ăn tại chỗ, nếu gia đình nào bận việc không đến tham dự lễ cúng được thì dân làng chia phần đem về hộ.

Lễ cúng thần rừng là một nghi lễ truyền thống quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm linh của dân tộc Pu Péo. Lễ cúng tạo nên mối quan hệ gắn kết trong cộng đồng, làng bản, nâng cao ý thức gìn giữ khu rừng cấm , góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên rừng đang ngày càng cạn kiệt và nguồn nước sinh hoạt cho đồng bào. Với giá trị đặc sắc, đại diện cho bản sắc của cộng đồng người Pu Péo, năm 2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Lễ cúng thần rừng của dân tộc Pu Péo vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Tập quán xã hội và tín ngưỡng.

(Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa)