Đình Tây Đằng thuộc thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2103.
Đây là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, độc đáo vào loại bậc nhất ở xứ Đoài. Đình thờ ba vị Thành hoàng: Tản Viên, Cao Sơn và Quí Minh, những vị anh hùng văn hoá, biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc trong việc chế ngự thiên tai, lũ lụt và chống giặc ngoại xâm…
Căn cứ vào dấu vết kiến trúc và nghệ thuật trang trí hiện còn, có thể khẳng định, đình Tây Đằng có niên đại khởi dựng vào thời Mạc, thế kỷ XVI. Và, kết quả kiểm tra bằng phương pháp C14 cũng đã ủng hộ nhận định này. Đến nay, đình đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, và lần gần đây nhất là vào năm 2002 – 2004.
Kiến trúc của đình gồm: cổng đình, hồ bán nguyệt, nghi môn, tả- hữu mạc, đại đình, giếng đình và một số hạng mục phụ trợ khác.
Cổng đình: được xây khá đơn giản, với hai trụ liền tường bao. Trụ có tiết diện hình vuông, với đầu cột bổ trụ ô lồng đèn, không có hoa văn trang trí. Hạng mục này không mang nhiều giá trị nghệ thuật, chủ yếu gắn với chức năng cửa ra, vào và bảo vệ khuôn viên, kiến trúc của đình.
Hồ bán nguyệt: ở vị trí phía trước sân đình, trong hồ thả sen. Ven hồ có hai đường dẫn vào nghi môn và sân đình.
Nghi môn: được xây theo dạng tứ trụ. Hai trụ lớn nằm ở hai bên của trục thần đạo. Đỉnh trụ đắp tứ phượng, đầu quay về bốn hướng, đuôi chụm lại tạo thành hình trái giành. Phía dưới phượng là phần mui luyện, với bốn mặt đắp trang trí hình hổ phù uy nghi. Tiếp đến là các ô lồng đèn, có trang trí đề tài tứ linh. Thân trụ soi gờ kẻ chỉ, bên trong đắp nổi các câu đối chữ Hán. Đế trụ thắt dạng cổ bồng. Hai trụ nhỏ ở hai bên, có kết cấu tương tự trụ biểu lớn, với đỉnh trụ đắp hình nghê chầu, tiếp theo là ô lồng đèn được xây vuông trổ thủng, thân trụ đắp nổi các câu đối chữ Hán.
Phía sau nghi môn là khoảng sân rộng. Phần trên trục thần đạo được tôn cao hơn xung quanh một cấp nền, tạo thành kiểu sân rồng để phục vụ việc tế lễ trong hội. Sân được lát gạch Bát Tràng, có kích thước (30 x 30)cm.
Tả – hữu mạc: nằm ở hai bên phía trước đại đình, được khởi dựng vào năm Canh Thân (1860). Mỗi toà đều có 3 gian, 2 chái, kết cầu chồng diêm, mái lợp ngói mũi hài, góc mái dạng đao cong, có trang trí hình rồng.
Đại đình: có bố cục mặt bằng dạng chữ Nhất, quay hướng Nam (hơi ngả sang Tây, gồm 3 gian, 2 chái lớn. Nền đình được bó vỉa bằng đá tảng, lát gạch Bát Tràng, cao hơn sân 60cm – khoảng tương ứng với bậc tam cấp. Đình có bộ mái thấp, lớn, lợp ngói mũi hài nhiều lớp, với 4 mái xòe rộng, trùm ra ngoài vỉa nền và hai chái. Phần mái có tỉ lệ bằng 2/3 chiều cao của ngôi đình. Các đường bờ nóc, bờ dải được trang trí hoa chanh. Hai đầu bờ nóc là hai con lân cõng trên lưng một vân xoắn lớn.
Hệ khung đỡ mái của đình tì lực lên 6 hàng cột gỗ, với tổng số 48 cột lớn, nhỏ. Chu vi cột cái 750cm, cột quân 500cm, cột hiên 280cm. Các cột đềuđược làm kiểu thượng thu hạ thách, đứng trên chân tảng bằng đá xanh theo kiểu thức âm – dương, trên tròn dưới vuông. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, được hình thành qua liên kết các bộ vì. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái, được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hầu hết các cấu kiện đều được làm bằng gỗ mít. Trên các cấu kiện gỗ của tòa đại đình đều có các đề tài trang trí rồng, lân, nghê, hoa lá, vân xoắn…
Điểm đặc biệt trong kiến trúc đình Tây Đằng và các ngôi đình cùng niên đại thời Mạc (thế kỷ XVI), như Đình Thanh Lũng (Ba Vì), là còn có thêm bộ phận cánh gà đỡ dưới dạ các xà dọc (tai cột). Cấu kiện này bao gồm hai thân gỗ, có đặc điểm dài ở trên, ngắn ở dưới. Một số cánh gà còn có hai đấu vuông thót đáy kê ở giữa, với thân ván dày, bên dưới còn được chạm khắc tỉ mỉ các đề tài rồng, cá chép hóa rồng. Đình Tây Đằng hiện còn bảo tồn được tương đối nguyên vẹn hệ thống cánh gà có niên đại sớm nhất và hiếm thấy trong di tích cổ truyền ở nước ta.
Trước đây, bộ khung gỗ của đại đình còn có liên kết ở phía dưới, đó chính là hệ thống dầm sàn. Dầm dọc nối các cột trong cùng một bộ vì, dầm ngang nối các cột (cùng hàng) của các bộ vì với nhau. Ván sàn được lát trên các dầm này. Ngoài gian giữa, tất các các gian đều có sàn. Tuy nhiên, hiện nay sàn của đình Tây Đằng không còn nữa. Tại gian giữa tòa đại đình, phía trước bài trí sập thờ, hương án, án gian và các đồ thờ tự. Gian chái bên phải đình đặt ban thờ quan Bộ Hộ, các gian bên được để trống, tạo không gian rộng rãi cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng làng xã.
Hậu cung: là nơi thờ Thành hoàng, lưu giữ các vật thiêng và đồ thờ cúng. Cung này được làm tại vị trí trung tâm ngay nửa sau, khoảng giữa hai cột cái và cột quân của gian giữa đại đình, với hệ thống ván sàn bằng gỗ, cao 1,9m so với mặt nền. Cửa hậu cung được làm theo kiểu bức bàn, với 6 cánh, có trang trí tứ linh. Phía trước cửa hậu cung là khám gian bưng kín, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Phía trên khám này được trang trí hai lớp, với bên trong chạm nổi đề tài rồng chầu hoa cúc, bên ngoài chạm hình rồng phun lửa, mắt lồi, trong tư thế nhìn xuống, có đao mác lớn, mũi to, thân tạo vẩy dầy, phía bên trái phần đuôi rồng còn có hình người ngồi, như thể hiện khát vọng cầu nguồn nước. Toàn bộ phần phía trước hậu cung được sơn son thếp vàng. Hai mặt bên hậu cung được bưng kín bằng các đố lụa, có trang trí đề tài phượng chầu chữ thọ. Bên trong cửa hậu cung là nơi trang trọng, thâm nghiêm được đặt 3 ngai thờ Thành hoàng. Toàn bộ không gian bên dưới gác lửng hậu cung được để trống, không bài trí di vật.
Các mảng chạm khắc trang trí trên kết cấu gỗ của đình Tây Đằng, như tại đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, đấu, ván nong, ván lá đề, con rường, vì nóc… được tạo tác qua kỹ thuật chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thủng đã đạt đến đỉnh cao, tạo nên những tuyệt tác điêu khắc. Đề tài trang trí cũng rất phong phú, đa dạng về loại hình, gồm linh vật, hình tượng thiên thần, hình tượng con người, biểu tượng tự nhiên, cỏ cây, hoa lá, rồng, lân, hươu, phượng,voi, ngựa, lân hí cầu, voi đi cày, voi phi (voi lồng), hình tượng hươu trong thế chạy phun lửa, thế nằm nghỉ trên một vân xoắn…
Đình Tây Đằng không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương, nơi hội tụ cộng đồng làng xã, mà còn là một “bảo tàng văn hoá, nghệ thuật dân gian” sống động, là nguồn tư liệu sáng giá để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hoá của cộng đồng và dân tộc./.
Nguyễn Khắc Đoài (Theo Hồ sơ xếp hạng di tích – Tư liệu Cục Di sản văn hóa)