Dân ca Cao Lan

Dân ca Cao Lan hay Sịnh ca Cao Lan thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian của người Cao Lan ở xã Đèo Gia, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Từ bao đời nay, Dân ca Cao Lan được lưu truyền trong cộng đồng dân tộc Cao Lan như một sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu.

 

Từ người già đến thanh niên, trẻ nhỏ, ai cũng say mê Sịnh ca, bởi nó không chỉ là những bài hát giao duyên của trai gái, mà còn là những bài hát ca ngợi sản xuất, h&ute;t “phụng” Thổ công và Thần Nông, hát mừng nhà mới, hát ru con, hát đố, hát ghẹo… Qua những làn điệu dân ca này, người Cao Lan có thể gửi gắm những tâm tư, tình cảm với nhau, những ước mơ, nguyện vọng của người lao động với thiên nhiên và thần linh… Mỗi khi có dịp gặp nhau, người Cao Lan hát cho nhau nghe những bài hát ca ngợi cảnh đẹp quê hương, làng bản. Những lúc lao động vất vả, mệt nhọc, họ thường cất lên tiếng hát ca ngợi tinh thần lao động, cầu chúc những vụ mùa tươi tốt. Khi trai gái làm quen hay bén duyên nhau, họ hát những làn điệu dân ca để ngỏ ý giao duyên và hẹn ước…

Ngoài những bài được truyền lại, người Cao Lan còn có thể hát ngẫu hứng, sáng tạo ra những bài dân ca mới, phản ánh cuộc sống của người dân, ca ngợi Đảng, Nhà nước và Bác Hồ. Phần lời của Dân ca Cao Lan thường là những bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Bốn câu thành một bài, mỗi câu 7 chữ. Một số trường hợp câu thứ nhất chỉ có 3 hay 4 chữ, nên 4 câu chỉ có 24 đến 25 chữ. Do vậy, khi hát người ta phải dùng lời láy để ngân nga. Bố cục của một cụm ca thường gồm hai bài, nhưng cũng có trường hợp một bài hoặc nhiều bài. Tuy vậy, trong mỗi cụm ca thường có phần đầu giống nhau, diễn tả về một sự việc, câu hỏi, lời chào, còn phần giữa và phần kết lại có nội dung khác nhau.

Về cơ bản, Dân ca Cao Lan bao gồm các thể loại:

Snh ca Thsăn lèn (mừng năm mi): là những bài hát để mừng năm mới, chúc tụng nhau đủ đầy, hạnh phúc, nhà nhà vui vẻ.

Snh ca Thsao bo (đối giao duyên): là những bài hát phổ biến nhất và được nhiều người Cao Lan ưa thích. Hát đối đáp, giao duyên có từ xa xưa và được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ghi chép bằng chữ Hán. Có thể coi đây là một trong những thể loại văn học dân gian cần được bảo tồn và gìn giữ. Các điệu hát đối đáp, giao duyên này phần lớn được các thanh niên nam nữ hát với nhau và được truyền lại qua nhiều thế hệ. Nội dung những bài ca này thường là mượn cảnh thiên nhiên để trao đổi, tâm tình với nhau, hỏi thăm gia cảnh của nhau. Họ mượn lời hát để gửi gắm yêu thương, nhớ nhung hay trách móc, giận hờn để sau cuộc hát lại gần nhau hơn. Những cuộc hát giao duyên giữa thanh niên nam nữ có thể kéo dài nhiều đêm với đề tài tình yêu đôi lứa và ước vọng xây dựng một cuộc sống chung hạnh phúc.

Snh ca Kên láu (hát đám cưới): là thể loại hát vui nhộn và phong phú về số lượng bài. Người Cao Lan hát Sịnh ca Kên láu trong suốt những ngày diễn ra lễ cưới. Thường khi đến nhà gái, đoàn đón dâu của nhà trai phải hát thì nhà gái mới cho vào nhà. Từ khi đi đón dâu đến lúc đưa dâu về nhà chồng, phải trải qua ít nhất hai đêm hát.

Sịnh ca Tò tan (hát đố): gồm những bài hát được truyền lại và một số bài mới do người Cao Lan sáng tạo ra hàng ngày để đố nhau rồi tự giải nghĩa. Đây cũng thuộc loại hát vui, đầy tính sáng tạo ngẫu hứng, đòi hỏi người hát phải thuộc những bài cổ để trên cơ sở đó sáng tạo những bài mới.

Dân ca Cao Lan được hát ở hầu khắp mọi nơi, như trong nhà, ngoài đường,  ở chợ, trên đồi, trong rừng hay trên nương rẫy… Nếu như có bạn hát là người làng khác đến chơi thì bao giờ chủ cũng hát trước, khách hát sau. Đó là những bài hát hỏi thăm gia cảnh, gia đình, quê hương….

Đối với hát làm quen, giao duyên, địa điểm hát thường là một nhà n&ve;o đó trong làng. Cả chủ và khách, họ bắt đầu từ những bài hát hỏi, chào mừng lẫn nhau; khi quen hơn, họ hát đối đáp; khi đã hiểu về nhau, họ mượn những bài tả cảnh để nói với nhau về tình. Những cuộc hát như vậy thường từ chiều hôm trước tới lúc gà gáy hôm sau. Sáng hôm sau, họ tiếp tục ra đường hát và từ lúc này, người ta có thể sáng tạo thêm các bài để hát chơi, trêu ghẹo nhau, gọi là Sịnh ca ý. Khi cuộc hát đã tàn, một bên nửa muốn về, nửa muốn ở lại; một bên lại muốn níu giữ nên cứ dùng dằng kẻ ở người về, lưu luyến, nhớ nhung…

Dân ca Cao Lan là sinh hoạt văn hóa đặc sắc được các thế hệ người Cao Lan kế thừa và lưu truyền từ nhiều đời nay. Trong tiềm thức của mỗi người dân Cao Lan đều c&cute; ý thức tự hào về lịch sử và văn hoá dân tộc mình, nên họ cùng nhau đoàn kết để gìn giữ và bảo vệ. Dân ca Cao Lan được lưu truyền hết sức tự nhiên và giản dị, bởi nó không bị lệ, luật ràng buộc chặt chẽ, cũng không bị lệ thuộc vào không gian hay thời gian thể hiện. Đơn giản, đó chỉ là những cuộc hát trong gia đình khi năm mới đến, hát chúc mừng khách đến chơi, hát giao duyên trong đám cưới, hát kể về công lao cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng, hát đối đáp khi lao động, hát giao duyên, hay ngày nay là ca ngợi Đảng và Bác trong các không gian rộng mở…, thể hiện muôn mặt đời sống văn hóa, tinh thần, các phong tục tập quán của người Cao Lan.

Dân ca Cao Lan còn là sinh hoạt tinh thần giúp gắn kết cộng đồng. Khi h&te;t, người ta quên hết khó khăn, vất vả của cuộc sống thường ngày, quên đi mọi hiềm khích mà chỉ còn ở đó tiếng hát với tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, động viên nhau lao động và vui sống…, vì thế mà con người trở nên gần gũi, yêu thương nhau hơn.

Trước xu thế hội nhập, phát triển trong cuộc sống hiện đại, đời sống văn hoá, xã hội và tinh thần của người Cao Lan cũng có nhiều biến đổi. Dân ca Cao Lan đang bị mai một do thế hệ trẻ không còn say mê như trước. Hơn nữa, đa số những bài Sịnh ca được ghi chép bằng chữ Hán, nên chỉ có những người biết chữ Hán mới đọc được. Lớp người trung niên và mới lớn không biết chữ Hán thì không hiểu về nội dung của những câu hát, mặc dù họ vẫn hát kiểu “thuộc lòng”. Đ&c;y là những trở ngại đối với việc truyền dạy và lưu giữ di sản đặc sắc này của người Cao Lan.

Với nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản Dân ca Cao Lan, Bảo tàng Bắc Giang đã tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật, xuất bản một số bài dân ca Cao Lan. Tháng 12 năm 2012, Dân ca Cao Lan đã được Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia, khẳng định thêm về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian cần được bảo tồn và phát huy này.

(Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa)